Nhìn lại những mùa The Open Championship tại Carnoustie

Carnoustie không phải là sân golf dễ chơi nhưng tại đây cũng đã 7 lần tổ chức British Open và The Open Championship.

Năm: 1931

Vô địch: Tommy Armour

Điểm: 296

Khoảng cách: 1 gậy

Á quân: Jose Jurado

Tiền thưởng: 100 bảng

Armour, một người Scotland nhập cư vào Mỹ, đã kém 5 gậy so với Jurado của Argentina trước khi bước vào vòng cuối. Thế nhưng, ông kết thúc vòng với 71 gậy để qua đó vô địch với 1 gậy cách biệt. Jurado vẫn còn dẫn 2 gậy cho đến khi kết thúc với các cú ghi điểm bogey.

Armour trở thành người Scotland cuối cùng vô địch British Open trên sân nhà cho đến khi Paul Lawrie chiến thắng ở Carnoustie năm 1999.

Tommy Armour

Năm: 1937

Vô địch: Henry Cotton

Điểm: 290

Khoảng cách: 2 gậy

Á quân: Reg Whitcombe

Tiền thưởng: 100 bảng

Summary: Cotton, nhà vô địch Open Championship năm 1934, bị dẫn 3 gậy so với Whitcombe trước khi bước vào vòng cuối. Ông mở màn với 74 gậy nhưng sau mỗi ngày đều rút ngắn 1 gậy, trước lúc khép lại với 71 gậy, hơn 2 gậy so với người đứng sau.

Henry Cotton

Năm: 1953

Vô địch: Ben Hogan

Điểm: 282

Khoảng cách: 4 gậy

Á quân: Antonio Cerda, Dai Reese, Peter Thomson, Frank Stranahan

Tiền thưởng: 500 bảng

Hogan chỉ một lần xuất hiện ở British Open, nói rằng ông có thể không được xem là golfer vĩ đại nếu không giành Claret Jug.

Bằng điểm với Roberto de Vicenzo trước vòng cuối, Hogan khép lại ngày thi đấu với 68 gậy, hơn các đối thủ tới 4 gậy. Trước giải đấu, Walter Burkemo đã giành PGA Championship, vì thế, việc hoàn tất Grand Slam sự nghiệp là không thể với Hogan. Mặc dù vậy, ông đã giành cả 3 major mà ông có mặt năm đó với cách biệt 15 gậy.

Ben Hogan

Năm: 1968

Vô địch: Gary Player

Điểm: 289

Khoảng cách: 2 gậy

Á quân: Bob Charles, Jack Nicklaus

Tiền thưởng: 3.000 bảng

Thời của "Big Three", Garry Player và Jack Nicklaus đã ganh đua quyết liệt ở Carnoustie, trước lúc cục diện thay đổi ở par-5 hố 14 khi Player ghi điểm eagle và qua đó dẫn 2 gậy. Player khép lại giải đấu với 73 gậy, hơn 2 gậy so với Nicklaus (73) và Charles (76). Billy Casper, người đã dẫn 1 gậy trước vòng cuối, đã mất 78 gậy và rơi xuống vị trí thứ 3.

Gary Player.

Năm: 1975

Vô địch: Tom Watson

Điểm: 279

Khoảng cách: Playoff

Á quân: Jack Newton

Tiền thưởng: 7.500 bảng

Watson đã 2 lần thất bại đáng tiếc ở major khi khép lại ngày cuối tuần với thành tích 78-77 gậy trước đó 1 tháng ở Medinah và vứt đi cơ hội vô địch U.S. Open. Một năm trước, ông mất 79 gậy ở vòng cuối tại Winged Foot và cũng ở U.S. Open.

Tại Carnoustie, Watson kém 3 gậy so với người đứng đầu nhưng ông khép lại vòng cuối với 72 gậy để kết thúc với 279 gậy, bằng Newton (74) và hơn 1 gậy so với Jack Nicklaus, Johnny Miller. Ở vòng playoff, ông mất 71 gậy, qua đó hơn người đứng sau đúng 1 gậy.

Tom Watson.

Năm: 1999

Vô địch: Paul Lawrie

Điểm: 290

Khoảng cách: Playoff

Á quân: Jean Van de Velde, Justin Leonard

Tiền thưởng: 350.000 bảng

Van de Velde có cơ hội trở thành golfer người Pháp đầu tiên kể từ năm 1907 giành Claret Jug khi dẫn 3 gậy trước vòng cuối. Thế nhưng, ông đã để Lawrie và Leonard đuổi kịp. Ở vòng playoff, Lawrie chỉ mất 67 gậy để tạo khoảng cách 10 gậy, giúp ông tạo ra màn ngược dòng vĩ đại nhất trong lịch sử major.

Paul Lawrie

Năm: 2007

Vô địch: Padraig Harrington

Điểm: 277

Khoảng cách: Playoff

Á quân: Sergio Garcia

Tiền thưởng: 750.000 bảng

Garcia đã sẵn sàng trở thành nhà vô địch major khi hơn 3 gậy so với Steve Stricker trước vòng cuối. Thế nhưng, golfer người Tây Ban Nha chững lại và để Harrington đuổi kịp. Ở vòng playoff 4 hố, golfer người Ireland mở đầu với cú ghi điểm birdie, còn Garcia mắc bogey, trước khi anh vô địch với cách biệt 1 gậy. Golfer người Ireland đã giành 2 trong 5 major tới, trong khi Garcia phải đợi 10 năm trước lúc giành major đầu tiên ở Masters.

​Padraig Harrington.​